ads

Slider[Style1]

Style2

Style3[OneLeft]

Style3[OneRight]

Style4

Style5

Quan hệ Việt Nhật qua những con số

Cùng tìm hiểu về quan hệ Việt Nam - Nhật Bản thông qua những con số thống kê dưới đây:



Nguồn: Vnexpress

Nhật Bản thiếu hụt nguồn nhân lực kế cận

Nhật Bản là một trong những quốc gia đang trải qua tình trạng dân số lão hóa nhanh nhất thế giới, đi kèm với đó là thiếu hụt nguồn nhân lực trong tương lai bởi ngày càng ít trẻ em được ra đời.



Theo báo cáo mới đây của cục thống kê thuộc Bộ nội vụ Nhật Bản, trong toàn thể các nước có dân số trên 40 triệu dân, Nhật là nước có tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi thấp nhất. Số trẻ em dưới 15 tuổi đã giảm 35 năm liên tiếp, tụt xuống mức thấp nhất kể từ khi cơ quan này tiến hành các cuộc điều tra dân số. Đây là vấn đề đáng báo động đối với triển vọng phát triển dài hạn của Nhật Bản. Bởi không một quốc gia nào có thể phát triển mà thiếu hụt nguồn nhân lực kế cận.

Tính đến ngày hết năm 2016, cả nước Nhật có 16 triệu trẻ em dưới 15 tuổi, giảm 150.000 em so với năm 2015. Số trẻ em đã giảm suốt 35 năm liên tục kể từ 1982. Nếu tính tỷ lệ trên tổng dân số thì tỷ lệ trẻ em đã giảm 42 năm liên tiếp, xuống mức thấp nhất từ trước tới nay. Trên 47 tỉnh thành của Nhật Bản, chỉ duy nhất thủ đô TOKYO - nơi luôn thu hút 1 lượng lớn dân di cư, là có số trẻ em gia tăng so với năm trước.

Chính quyền thủ tướng Shinzo Abe cho rằng không thể ngăn chặn đà suy giảm dân số hiện nay, và chấp nhận duy trì một quốc gia với quy mô dân số là 100 triệu người trong vòng 50 năm tới, giảm 27 triệu người so với hiện nay. Nhật đạt mức dân số 100 triệu dân lần đầu tiên là vào năm 1970, thời kỳ đánh dấu giai đoạn chuyển biến sang vị thế cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Giờ đây con số 100 triệu dân đã mang một ý nghĩa biểu tượng. Và nếu dân số giảm xuống mức dưới 100 triệu thì đồng nghĩa số người già ngày càng tăng, khi đó Nhật khó có cách nào duy trì hệ thống lương hưu như hiện nay.

Sự gia tăng số người già, giảm tỷ lệ trẻ em đang đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản, như lương hưu, y tế và vấn đề nguồn lao động trẻ trong tương lai cũng phải tính đến phương án gia tăng tuyển chọn lao động từ nước ngoài.

Tính toán ra thì cứ 5 năm dân số Nhật Bản lại giảm đi 1 triệu người, một con số vô cùng đáng lo ngại, nhất là đối với một quốc gia không có chiến tranh, không có bệnh tật, không khủng hoảng chết chóc. Xu hướng dân số tiêu cực tại Nhật Bản đã diễn ra hàng chục năm nay, Chính phủ cũng đã có các biện pháp như khuyến khích người dân sinh con, tăng số lượng nhà trẻ, thưởng đến 10 triệu yên ( 2,2 tỷ đồng) khi sinh con lần đầu, hỗ trợ người phụ nữ vừa đi làm vừa trông con… nhưng xem ra vẫn chưa có hiệu quả tốt.

Và thực tế một số người nước ngoài đang sinh sống ở Nhật, người nhập quốc tịch Nhật đang tính toán để sinh con ổn định cuộc sống tại đất nước này và nếu nhận được số tiền thưởng trên sẽ phần nào giúp đỡ được cho họ.

Mấy năm trở lại đây các công ty bên Nhật đang gia tăng tuyển chọn lao động từ nước ngoài sang Nhật làm việc, với con số lên đến 66 ngành nghề cho thực tập sinh theo quy định của JITCO. Bình quân năm sau số lao động sang Nhật tăng mạnh so với năm trước, đây sẽ là một thị trường vô cùng tiềm năng đối với lao động Việt trong tương lai dài. Và hiện nay Nhật Bản chính là thị trường chất lượng nhất để lao động Việt chọn lựa đi xuất khẩu. Dù đứng sau Đài Loan về số lượng nhưng chất lượng luôn là hàng đầu.

Một trong những điều tạo nên sự cao cấp cho thị trường XKLĐ Nhật đó chính là khâu tuyển chọn lao động kĩ lưỡng từ phía xí nghiệp. Có khi chỉ tuyển 2 đến 3 lao động nhưng chủ xí nghiệp và nghiệp đoàn cử 4, 5 người bay từ Nhật sang Việt Nam để phỏng vấn. Không phải cứ nộp tiền là sẽ có công ty tiếp nhận và đưa sang Nhật, không dễ như đi XKLĐ sang Đài nhưng đổi lại lao động nhận được rất nhiều lợi ích như công việc tốt, mức lương cao (trung bình thực lĩnh trên 20 triệu đồng/ tháng). Chất lượng cuộc sống của lao động tại Nhật cũng được đảm bảo tốt khi vấn đề bảo hộ lao động, đời sống sinh hoạt được quan tâm chú trọng….

Việc lao động trong nước Xuất khẩu sang Nhật sẽ còn tiếp tục tăng mạnh và kéo dài trong tương lai bởi càng về sau đất nước Nhật càng thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ. Những lao động đang có ý định đi XKLĐ Nhật Bản hãy tìm hiểu cụ thể tại các công ty được cấp phép đáng tin cậy, tránh bỏ qua cơ hội tại một thị trường tiềm năng hàng đầu như Nhật Bản.

Mọi thông tin chi tiết về XKLĐ xin vui lòng liên hệ:

CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ABC

Địa chỉ: số 79, Thiên Hiền, Mỹ Đình I, Nam Từ Liêm, Hà Nội

Điện thoại: 04. 3996. 5446

Hotline: 09. 4567. 3586/ 09.6681. 8266

Website: http://www.abcgroup.com.vn/

Fanpage: http://www.facebook.com/abcgroup.com.vn/

Cần nhiều lao động trong năm 2017

"Trong 2017 dự báo sẽ cần nhiều lao động hơn nhưng là cần lao động có năng lực chứ không cần bằng cấp"



Tăng 3,7% so với năm 2016

Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm dự báo nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM, hiện nay thị trường lao động còn rất nhiều hạn chế như nghịch lý về cơ cấu đào tạo ngành nghề, xu hướng chọn học ĐH chiếm tỷ trọng cao… Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu cho thấy sẽ có sự thay đổi.

Đầu tiên là chương trình khởi nghiệp quốc gia bắt đầu khởi động, giới trẻ rất chú ý và điều này sẽ giúp họ tự tạo việc làm. Ngoài ra, có 4 điểm tích cực giúp cho việc làm của người lao động tốt hơn. Đó là cơ quan nhà nước đang cải tổ tạo điều kiện nhiều hơn để thu hút người trẻ. Doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, giảm số lượng công ty phá sản, có thêm nhiều chỗ làm. Ngoài ra doanh nghiệp nước ngoài tại TP.HCM ước tính mỗi năm tăng trưởng khoảng 2% nên người lao động có kiến thức, kỹ năng, ngoại ngữ sẽ có rất nhiều cơ hội tham gia. Việc xuất khẩu lao động được đẩy nhanh và việc di chuyển lao động giữa các nước ASEAN bắt đầu hình thành, tạo ra thêm cơ hội làm việc.

Tại TP.HCM bắt đầu khởi động chương trình việc làm thành phố giai đoạn 2017 - 2020, đặc biệt tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp chủ lực, 9 ngành kinh tế trọng yếu và phát triển 50.000 doanh nghiệp trong năm 2017. Năm tới, dự kiến TP.HCM cần khoảng 280.000 chỗ làm việc (tăng 3,7% so với năm 2016), trong đó có khoảng 140.000 chỗ làm việc mới. Nhu cầu tuyển dụng lao động tập trung ở những ngành nghề như: kinh doanh - marketing - bán hàng, dịch vụ - du lịch - nhà hàng khách sạn, công nghệ thông tin, cơ khí - tự động hóa…

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để có thể cải thiện tình hình thất nghiệp trong những năm sắp tới, cần hoàn thiện mô hình, nâng cao năng lực hoạt động phân tích và dự báo cung - cầu nhân lực. Phải dự báo được những ngành nghề, lĩnh vực trọng điểm trung hạn (5 năm), dài hạn (10 - 20 năm). Ngoài ra, cần hoàn thiện phát triển hoạt động hướng nghiệp, đưa các chương trình giáo dục định hướng nghề nghiệp vào các trường THPT và THCS. Bên cạnh đó, xây dựng cổng thông tin hướng nghiệp - việc làm kết nối thành phố với các tỉnh thành, khu vực và quốc gia và điều tra, khảo sát việc làm của sinh viên, nhu cầu thị trường lao động về xu hướng việc làm và học nghề.

Cần người làm việc được chứ không cần bằng cấp

Theo ông Nguyễn Quốc Cường, Phó ban đào tạo, Hội Giáo dục nghề nghiệp TP.HCM, xu hướng việc làm năm 2017 là cần nhiều nhân lực hơn. Tuy nhiên, đây phải là nhân lực làm việc thật sự, không mất nhiều thời gian đào tạo lại chứ không liên quan nhiều đến bằng cấp. Nghĩa là doanh nghiệp cần nhiều nhân lực bậc CĐ, TCCN hơn là bậc ĐH. Tuy nhiên, sẽ khó khăn cho doanh nghiệp bởi xu hướng lựa chọn học ĐH vẫn đang chiếm đa số. Cũng theo ông Cường, những ngành như hàn, cơ khí, công nghệ thông tin, điện - điện tử… đang rất “khát” nhân lực.

Theo ông Nguyễn Tường Quang, Trưởng bộ phận quản lý nguồn tuyển, Ngân hàng Sacombank, hiện nay các ngân hàng bắt đầu tuyển dụng rầm rộ trở lại. Năm 2017 dự kiến ngân hàng sẽ tuyển khoảng 2.000 nhân sự cho các phòng ban, chi nhánh. Số lượng này vừa tuyển các vị trí mới vừa bổ sung cho nhân sự cũ nghỉ việc.

Đại diện Tập đoàn FPT cũng cho hay ước tính trong giai đoạn 2016 - 2020 tập đoàn cần tuyển khoảng 50.000 nhân sự ở nhiều vị trí.

Người tốt nghiệp ĐH, CĐ vẫn có nhu cầu tìm việc cao

Bộ LĐ-TB-XH và Tổng cục Thống kê vừa công bố bản tin cập nhật thị trường lao động VN quý 3/2016. Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Doãn Mậu Diệp cho biết thị trường lao động có những chuyển biến tích cực như tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng; tỷ lệ việc làm trong ngành nông, lâm thủy sản giảm; thu nhập của người lao động tăng lên... Tuy nhiên, quý này tăng trưởng kinh tế không tạo ra thêm nhiều việc làm, tỷ lệ lao động giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng. Đặc biệt, lực lượng lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất (8,36%).

Bảng phân tích thị trường lao động năm 2016 và dự báo nhu cầu nhân lực năm 2017 tại TP.HCM cũng cho thấy nhu cầu tìm việc làm chiếm cao nhất là lực lượng lao động trình độ ĐH, CĐ, TCCN và người có kinh nghiệm làm việc. Nhu cầu tìm việc cao nhất ở người có trình độ ĐH, chiếm hơn 52%. Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng đối với nhân lực CĐ - ĐH - sau ĐH chỉ chiếm 27,76%. Nhu cầu tuyển dụng nhân lực trình độ ĐH tại các khu chế xuất, khu công nghiệp càng thấp hơn nữa, chỉ gần 3%.

Ông Trần Anh Tuấn cho rằng một lý do quan trọng là sự tập trung việc làm ở các vùng đô thị. Thống kê của Trung tâm dự báo nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM cho thấy nhu cầu học nghề và tìm việc làm của sinh viên, người lao động từ các tỉnh, thành phố khác đến TP.HCM tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người tìm việc thường xuyên (khoảng trên 40%). Nguồn nhân lực này cạnh tranh gay gắt với sinh viên tốt nghiệp ĐH, CĐ, trường quốc tế, các chương trình liên kết, người nghỉ việc từ doanh nghiệp giải thể… Điều này dẫn đến việc làm đáp ứng không đủ.

Trong khi đó, học sinh đa số vẫn chọn học ĐH (87%), CĐ chỉ 7% và TCCN là 6%. Những nhóm ngành nghề được học sinh chọn lựa nhiều nhất trong năm 2016 lần lượt là: kỹ thuật công nghệ, kinh doanh dịch vụ, khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế - tài chính…

Trong năm vừa qua, tại TP.HCM, nhu cầu tuyển dụng lao động chiếm tỷ lệ cao chủ yếu ở các nhóm ngành nghề như: kinh doanh - bán hàng (24,19%), dịch vụ - phục vụ (20,41%), công nghệ thông tin (5,63%), dịch vụ du lịch - nhà hàng - khách sạn (5,5%)...

Nguồn: Báo Thanh niên

Xu hướng thị trường xuất khẩu lao động 2017 sẽ như thế nào?

Năm 2017 được dự báo sẽ là năm có nhiều khởi sắc trong công tác xuất khẩu lao động. Ngoài việc tiếp tục đầu mạnh các thị trường truyền thống như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc...thì các thị trường tiềm năng khác như Đức, Trung Đông...sẽ mở rộng và tạo thêm nhiều cơ hội cho lao động tay nghề cao sang làm việc.



Nhiều thị trường lao động rộng mở trong năm 2017

Khép lại năm 2016, cả nước đã đưa được 126.296 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vượt 26,29% so với kế hoạch năm, con số này cho thấy nhu cầu đi nước ngoài làm việc của lao động Việt Nam đang là rất lớn.

Đây là năm thứ 3 liên tiếp cả nước có trên 100.000 người đi xuất khẩu lao động, trong đó có 68.244 lao động đi Đài Loan, 39.938 lao động đi Nhật Bản, 2.079 lao động đi Malaysia, 4.033 lao động đi Ả rập Xê út, 8.482 lao động đi Hàn Quốc và các thị trường khác.

Đặc biệt, thị trường lao động Hàn Quốc đã được nối lại từ năm 2016, mở ra cơ hội cho hàng nghìn lao động Việt có thể sang Hàn làm việc với mức thu nhập tốt. Hiện nay, Việt Nam có hơn 50.000 lao động đang làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS.

Ngoài các thị trường lao động truyền thống thì chúng ta cũng đang xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các Hiệp định và Thỏa thuận về hợp tác lao động đã ký với các nước Thái Lan, Lào, Australia.

Trong năm 2017 sẽ tiếp tục triển khai đưa ứng viên điều dưỡng, hộ lý sang làm việc tại Nhật Bản và Đức theo các chương trình đã ký kết.

Cuối năm 2016, Nhật Bản cũng đã thông qua việc kéo dài thời hạn lưu trú cho các thực tập sinh đến 5 năm, đồng thời mở rộng tiếp nhận nghề hộ lý điều dưỡng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thỏa thuận với Đức liên quan đến vấn đề tuyển chọn đào tạo điều dưỡng sang làm việc trong các bệnh viện tại Đức. Hiện nay, cơ hội là rất rộng mở cho những lao động có chuyên môn trong lĩnh vực này.

Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn lao động

Dù số lượng người đi xuất khẩu lao động liên tục tăng đều trong 3 năm trở lại đây, nhưng có 1 thực tế quan trọng chúng ta cần lưu tâm đó là các nước ngày càng khắt khe hơn, yêu cầu chất lượng, tay nghề lao động cao. Đặc biệt là các thị trường có mức lương khá, cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…

Với những yêu cầu ngày càng cao từ các đối tác thì chất lượng lao động đã và đang là yếu tố ngày càng quan trọng trong thị trường xuất khẩu lao động ngoài nước.

Người lao động có ý định ra nước ngoài làm việc, ngoài việc có sức khỏe tốt thì người lao động cũng cần trang bị thêm những kỹ năng cần thiết như: ngoại ngữ, chuyên môn nghề nghiệp…

Không chỉ người lao động, phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng cần phải đầu tư nhiều hơn cho cơ sở đào tạo, qua đó sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khắt khe từ những thị trường khó tính.

Cơ hội đi làm việc tại các thị trường lao động với mức thu nhập cao trong năm 2017 đang là rất lớn, điều quan trọng là phải chuẩn bị tốt nguồn nhân lực để sẵn sàng đáp ứng.

Nguồn: Tổng hợp

Gần 40.000 người đi XKLĐ Nhật Bản trong năm 2016

Mới đây Cục quản lý lao động ngoài nước đã tổng kết số liệu thống kê về hoạt động xuất khẩu lao động trong năm 2016. Theo đó, cả nước có 126.296 lao động đi làm việc tại nước ngoài, trong đó có 39.938 lao động đi Nhật Bản (tăng 47,86% so với năm 2015).



Xuất khẩu lao động Nhật Bản tăng trưởng 47,86% so với năm 2015

Đây là năm thứ 3 liên tiếp, cả nước có số lượng người đi làm việc tại nước ngoài vượt mức 100.000 lao động. Tại các thị trường lao động trọng điểm như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc số lượng lao động đưa đi đều tiếp tục tăng so với năm 2015, cụ thể: 68.244 lao động đi Đài Loan, 39.938 lao động đi Nhật Bản, 8.482 lao động đi Hàn Quốc (tăng 40,92%).

Nhìn chung, năm 2016 là một năm thành công trong hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta, khi chúng ta đã có hàng loạt các thỏa thuận hợp tác lao động với một số thị trường lao động hấp dẫn như: Chương trình lao động kết hợp kỳ nghỉ tại Australia; Hiệp định hợp tác lao động Việt - Lào; Thoả thuận phái cử và tiếp nhận lao động giữa Việt Nam và Thái Lan; đặc biệt biên bản ghi nhớ về việc phái cử và tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình EPS sau gần 4 năm bị gián đoạn, mở ra cơ hội mới cho hàng ngàn lao động Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc.

Mục tiêu của chúng ta trong năm 2017 là sẽ đưa được 105.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó các thị trường trọng điểm tiếp tục là Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc. 

Bên cạnh đó sẽ tiếp tục triển khai các Hiệp định và Thỏa thuận về hợp tác lao động với các quốc gia Thái Lan, Lào, Australia, Malaysia, đồng thời tiếp tục triển khai đưa ứng viên điều dưỡng, hộ lý sang làm việc tại Nhật Bản theo các chương trình đã ký kết.

(Nguồn: Molisa)

Cảnh báo lao động " chui" tại nước ngoài tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Vụ nữ lao động làm việc chui tại Angola bị cướp thiêu tử vong một lần nữa lại gióng lên hồi chuông cảnh báo với những người lao động bất hợp pháp tại nước ngoài với tiềm ẩn muôn vàn rủi ro, nguy hiểm.



Xuất khẩu lao động là lựa chọn của nhiều người muốn thay đổi cuộc sống, tuy nhiên chi phí tham gia vào chương trình này không phải là ít khiến nhiều người phải suy nghĩ. Do đó, trong thời gian gần đây có nhiều người lựa chọn hình thức tham gia xuất khẩu lao động “chui” với hi vọng thoát nghèo, nhưng hình thức này có nhiều rủi ro tiềm ẩn như bị bóc lột, ngược đãi.

Đi hợp pháp rồi bỏ trốn

Tình trạng lao động đi xuất khẩu lao động hợp pháp rồi sau đó bỏ trốn ra ngoài làm việc với hi vọng nhận được mức lương cao hơn hay một bộ phận lao động đã không về nước sau khi kết thúc hợp đồng mà tiếp tục ở lại các nước, làm việc bất hợp pháp đang là một vấn đề nhức nhối của các công ty xuất khẩu lao động cũng như các ban ngành quản lý lao động ngoài nước.

Chỉ vì những cám dỗ hấp dẫn trước mắt, áp lực về đồng tiền khiến cho những lao động chấp nhận làm chui bất hợp pháp tại nước ngoài mà không hiểu những rủi ro những nguy hiểm mà mình sẽ gặp phải.

Cảnh báo rủi ro



Những người xuất cảnh trái phép sang nước ngoài làm việc thường gặp  nhiều rủi ro. Trước tiên là việc bất đồng ngôn ngữ nên khó có thể giao tiếp với người bản địa. Trường hợp một số người Việt lao động cùng nhau mới có thể trao đổi thông tin, còn lại nếu bị phân tán ở nhiều doanh nghiệp, nhiều nơi, người lao động gần như không biết mình đang ở đâu, không thể liên lạc được với gia đình. Tiếp theo là nguy cơ ăn chặn tiền công, không có chế độ, quyền lợi bảo vệ, bị ngược đãi, phải sống chui, sống lủi vì nguy cơ có thể về nước bất cứ lúc nào nếu bị cơ quan quản lý nước ngoài phát hiện.

Quản lý chặt chẽ, khuyến khích đi hợp pháp.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang bị sức ép lớn trước tình trạng di cư bất hợp pháp nhưng gần như không kiểm soát được kênh không chính thức này. Trước tình hình trên, ILO khuyến cáo Việt Nam cần tăng cường đối thoại, đàm phán để ký ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác lao động với các nước để hợp pháp hóa cho NLĐ, đồng thời cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, có cơ chế phối hợp để có thể bảo vệ quyền lợi cho họ. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng có những chính sách quản lý chặt chẽ đối với các công ty có dịch vụ đưa người sang nước ngoài làm việc để hạn chế tình trạng đi hợp pháp rồi bỏ trốn.

Để đảm bảo quyền lời của mình, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khuyến khích mọi người lao động hãy tìm hiểu kỹ lưỡng  trước khi đi xuất khẩu lao động và chỉ nên đi theo con đường hợp pháp tránh những rủi ro, nguy hiểm, tiền mất tật mang.

Edit: Huệ Nguyễn.

Rà soát pháp luật về xuất khẩu lao động từ góc độ bình đẳng giới

Nhằm xác định những bất cập về thúc đẩy bình đẳng giới trong Luật số 72/2006/QH11 và các văn bản hướng dẫn liên quan thông qua việc rà soát, đánh giá Luật và các văn bản này, từ đó có những đề xuất sửa đổi làm tiền đề cho việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới tốt hơn khi thực hiện sửa đổi Luật về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, ngày 6/10, tại Hà Nội, Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp cùng Cơ quan Phụ nữ Liên hợp quốc (UN Women) tổ chức tọa đàm nhằm giới thiệu kết quả nghiên cứu: Những khuyến nghị về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong Luật về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Tới dự có ông Phạm Viết Hương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, đại diện UN Women, đại diện 5 Sở LĐ-TBXH, 10 doanh nghiệp và các chuyên gia về lĩnh vực này.

Phát biểu khai mạc, ông Phạm Viết Hương cho biết, trong những năm gần đây có tổng số 80.000-100.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hàng năm, trong đó có khoảng 30 -35% là nữ. Lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài thường làm các ngành nghề gắn chặt với nữ giới như giúp việc gia đình, chăm sóc người già, công nhân điện tử, công nhân may,… Có thể nói, số lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cao mức sống gia đình, phát triển kinh tế hộ gia đình và địa phương. Việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài luôn được coi trọng, đặc biệt là lao động nữ vì đây là đối tượng yếu thế, dễ bị lợi dụng nhất là khi đi làm việc ở nước ngoài.

Để quản lý tốt hơn hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, ngày 26/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Luật có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Sau khi Luật ra đời, một loạt các văn bản hướng dẫn Luật đã được ban hành để triển khai thực hiện. Cho tới nay, Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã thực hiện được hơn 9 năm, góp phần tạo hành lang pháp lý quản lý chặt chẽ hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hiện nay, Bộ LĐ-TBXH đang chuẩn bị để xem xét trình Quốc hội sửa đổi Luật cho phù hợp với thực tiễn. Để chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật, Bộ LĐ-TBXH đã thực hiện các nghiên cứu như đánh giá tình hình thực hiện Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Theo bà Nguyễn Kim Lan, điều phối viên UN Women, Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống phụ nữ (CEDAW) năm 1982 và từ đó Việt Nam cam kết thực hiện những hoạt động nhằm thúc đẩy lĩnh vực bình đẳng giới trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Năm 2006, Luật Bình đẳng giới và Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã được Quốc hội thông qua. Một trong những nguyên tắc cơ bản quy định trong Luật Bình đẳng giới là bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật. Nhưng do 2 bộ luật này ra đời song song với nhau nên có một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chưa theo kịp nguyên tắc lồng ghép bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.



“Để chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật phù hợp với thực tiễn, đảm bảo các nguyên tắc theo quy định của pháp luật, Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp với UN Women tổ chức nghiên cứu rà soát pháp luật về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ góc độ bình đẳng giới. Trong quá trình soạn thảo, Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp với UN Women đã tổ chức lấy ý kiến của các chuyên gia đến từ các tổ chức xã hội dân sự như: Hội phụ nữ, Hiệp hội xuất khẩu lao động, các cơ quan trung ương và địa phương, các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các chuyên gia về luật và giới... để đảm bảo tốt hơn việc quản lý lao động đi làm việc ở nước ngoài và thúc đẩy bình đẳng giới.”

Bà Nguyễn Kim Lan nhấn mạnh "Di cư lao động đang trở thành một xu hướng phổ biến. Hiện nay trên toàn cầu có 232 triệu người di cư, trong đó phụ nữ chiếm 49%. Ở Việt Nam, có 500.000 lao động làm việc tại 40 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó 30-35% là lao động nữ. Với lượng lao động di cư lớn, thời gian qua, trên thế giới nhiều tiêu chuẩn về luật pháp quốc tế được xây dựng nhằm bảo vệ lao động di cư và thúc đẩy bình đẳng giới khuyến khích các quốc gia đảm bảo người lao động di cư nam và nữ được đối xử bình đẳng trong điều kiện di cư an toàn".

Tại buổi tọa đàm, các đại biểu đã được nghe bà Nguyễn Thị Diệu Hồng, tác giả Báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu rà soát pháp luật về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ góc độ bình đẳng giới. Theo đó, nghiên cứu này nhằm xác định những bất cập về thúc đẩy bình đẳng giới trong Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản hướng dẫn liên quan thông qua việc rà soát, đánh giá Luật và các văn bản này, từ đó có những đề xuất sửa đổi làm tiền đề cho việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới tốt hơn khi thực hiện sửa đổi Luật này. Cũng theo bà Nguyễn Thị Diệu Hồng, báo cáo được thực hiện theo phương pháp rà soát đánh giá tài liệu và thảo luận nhóm trọng tâm. Những phát hiện chính và khuyến nghị gồm: Quyền tiếp cận thông tin; quyền được pháp luật bảo vệ; các quyền liên quan đến việc làm quyền được tôn trọng, không bị xâm phạm thân thể; những vấn đề tài chính liên quan đến NLĐ khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó gồm các khoản phí và chuyển tiền về nước; những chính sách đối với NLĐ sau khi hết hạn hợp đồng trở về.

(Nguồn: Molisa)

Nhật Bản có kế hoạch tăng số lao động nhập cư

Nhật Bản đang có kế hoạch tăng số lao động nhập cư tại Nhật Bản nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động tại quốc gia này.



Nhật bản có kế hoạch tăng lao động nhập cư

Theo phóng viên TTXVN tại Nhật Bản, báo “Japan Times” ngày 25/9 dẫn phát biểu của hai trợ lý của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết quốc gia này đang có kế hoạch tăng số lao động nhập cư tại Nhật Bản nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động tại quốc gia này, trong đó đáng chú ý là kế hoạch trong mùa Thu này sẽ thông qua một dự luật tăng số thực tập sinh nước ngoài.

Cựu Thứ trưởng Tài chính – Kinh tế và hiện là cố vấn của Thủ tướng Abe, ông Yasutoshi Nishimura cho biết Chính phủ Nhật Bản có kế hoạch thông qua một dự luật trong mùa Thu này nhằm phát triển hệ thống tuyển thực tập sinh nước ngoài.

Đây là hệ thống tuyển dụng lao động nước ngoài đến Nhật Bản làm việc trong một thời gian nhất định nhằm giải quyết tình trạng thiếu lao động tại quốc gia này.

Hiện có khoảng 190.000 lao động nước ngoài đến Nhật Bản làm việc theo quy chế thực tập sinh. Theo ông Nishimura, luật mới – nếu được thông qua, có thể kéo dài thời gian cư trú tại Nhật Bản của các lao động nước ngoài từ mức 3 năm hiện nay lên tới 5 năm.

Luật này đồng thời cho phép các công ty có thể tăng tỷ lệ số thực tập sinh nước ngoài được tuyển dụng trong lực lượng nhân công, đồng thời mở rộng ngành nghề được phép tuyển dụng thực tập sinh.

Ông cho biết hoạt động giám sát hệ thống thực tập sinh sẽ được cải thiện sau khi có nhiều chỉ trích về tình trạng lạm dụng lao động nước ngoài trong ngành nông nghiệp và dệt may.

Ông Nishimura cho biết Chính phủ Nhật Bản cũng đang cân nhắc quy chế visa mới để tuyển dụng lao động cho các ngành kinh tế đang thiếu hụt lao động trầm trọng.

Ông Nishimura cho biết thêm hiện tại, cũng có cuộc thảo luận về việc tuyển dụng lao động công nghệ của Việt Nam và Ấn Độ, cũng như vấn đề lập một quy chế visa mới cho lao động nước ngoài làm việc trong ngành du lịch, một ngành kinh tế đang phát triển mạnh tại Nhật Bản hiện nay.

Bà Masahiko Shibayama, nghị sĩ của đảng Dân chủ tự do cầm quyền (LDP), đồng thời là một cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Abe, cũng tiết lộ có khả năng trong vài năm tới sẽ có nhiều chính sách liên quan đến lao động nhập cư được thông qua.

Theo bà, các chính sách liên quan đến lao động nhập cư mà chính phủ đang cân nhắc hiện nay có thể giúp tăng gấp đôi số lao động nhập cư tại Nhật Bản.

(Nguồn: Isenpai)

Đình chỉ hoạt động của 3 công ty môi giới lừa đảo tại Đài Loan

Vừa qua theo thông tin của Ban Quản Lý Lao Động Việt Nam tại Đài Loan cho biết cơ quan thẩm quyền của Đài Loan ra quyết định đình chỉ hoạt động của 3 công ty môi giới lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan do vi phạm pháp luật.

3 công ty bị đình chỉ hoạt động mua giới lao động nước ngoài xuất khẩu lao động sang Đài Loan làm việc

1. Công ty Hữu hạn Khai phát nhân lực quốc tế Đài Chúng (huyện Đài Nam, Đài Loan) có hành vi môi giới người nước ngoài làm việc bất hợp pháp, bị đình chỉ từ ngày 6-9-2016 đến 5-3-2017.

2. Công ty Hữu hạn Cố vấn Quản lý nguồn nhân lực Gia Tường có hành vi thu phí ngoài quy định của người lao động, bị đình chỉ từ ngày 1-10 đến 31-12-2016.

3. Công ty Hữu hạn Xí nghiệp Bác Tùng (TP Đài Bắc) có hành vi thu phí ngoài quy định của người lao động, bị đình chỉ từ ngày 1-10 đến 31-12-2016.

Cảnh báo cho những lao động bất hợp pháp làm việc tại nước ngoài:





Những lao động bất hợp pháp rất dễ bị chủ lao động lừa đảo, bắt làm việc nặng nhọc, làm việc suốt ngày. 

Mặc dù làm việc như vậy nhưng lại được trả lương rất ít, có nơi còn không được trả lương chỉ bao ăn.

Làm được vài tháng thì bị bắt về nước sẽ không được sang làm việc tại Đài Loan lần thứ 2.

Không nên tin vào lời mời mọc của môi giới như việc nhẹ, lương cao, chi phí thấp...

Cục Quản lý lao động ngoài nước khuyến cáo và đề nghị các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam không liên kết tuyển chọn với 3 công ty môi giới trên trong thời hạn bị đình chỉ.

Người lao động khi ký hợp đồng phải nhìn kỹ doanh nghiệp, công ty Đài Loan nào nhận tuyển chọn để tránh 3 công ty trên.

(Nguồn: Tổng hợp)

Đề xuất lệ phí cấp, xác minh giấy tờ lao động đi làm việc nước ngoài

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến cho dự thảo Thông tư về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Dự kiến, lệ phí cấp mới giấy phép hoạt động dịch vụ này là 5.000.0000 đồng.

Theo đó, Thông tư quy định đối tượng nộp phí, lệ phí là các tổ chức, cá nhân yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác minh giấy tờ, tài liệu liên quan đến lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài thì phải nộp phí; tổ chức được cấp, đổi, cấp lại Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.



Cơ quan được tổ chức thu phí, lệ phí là Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH).

Dự kiến, Thông tư sẽ có hiệu lực chính thức từ ngày 1/1/2017.

(Nguồn: Dân trí)

Mức lương tối thiểu tại Nhật tăng mạnh năm 2017

Vào ngày 23/08, Chính phủ Nhật Bản đã họp cùng với Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi và ra quyết định tăng lương mức lương tối thiểu của người lao động tại Nhật Bản từ 789 yên/h lên 823 yên/h tức là tăng thêm 25 yên/h đối với mọi người lao động kể cả những người xuất khẩu lao động Nhật Bản.


Điều này sẽ đánh dấu một bước tăng trưởng mạnh nhất trong mức lương tối thiểu của người lao động Nhật Bản. Kể từ khi Nhật Bản bắt đầu chuyển từ tính mức lương theo giờ thay vì đánh giá mức lương hàng ngày của người lao động từ năm 2002 đến nay thì đây là lần tăng mạnh nhất.

Mức lương mới, được chính phủ nhật công bố vào thứ ba sẽ có hiệu lực tính từ ngày 1/1/2017 trên tất cả 47 tỉnh thành tại Nhật Bản

Vào cuối tháng Bảy, Hội đồng lương quốc gia Nhật Bản cũng đề nghị Bộ trưởng Lao động đề xuất lên chính phủ việc tăng mức lương tối thiểu trung bình của lao động Nhật Bản tăng khoảng 23 yên/h. Nhưng dựa vào những kiến nghị, Hội đồng lương từ các địa phương điều chỉnh thì mức lương thông qua sau buổi họp hôm thứ 3 là 25 yên/h chứ không phải là 23 yên/h đây là điều rất vui mừng đối với người lao động tại Nhật.

Việc tăng 25 yên/h phản ánh rằng chính phủ Nhật bản rất coi trọng người lao động tại đây kể cả những lao động nước ngoài. Họ cũng sẽ đều hưởng chung 1 chế độ giống như những người dân bản địa tại Nhật Bản.

Tuy nhiên việc tăng này cũng còn tùy theo từng khu vực nhưng những nơi có số lượng người lao động trong khu vực đô thị thì mức lương sẽ tăng cao hơn. Ví dụ như : Tokyo hiện nay có mức lương tối thiểu cao nhất là 932 yên, tăng 25 yên, trong khi Miyazaki và Okinawa có mức thấp nhất tại 762 yên, tăng 21 yên.

(Nguồn: Tổng hợp)

11.645 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tháng 7 năm 2016

Theo số liệu báo cáo từ các doanh nghiệp, tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong tháng 7 năm 2016  vừa qua là 11.645 lao động.

Trong đó:

- Lao động nữ là: 4.154 lao động.

- Lao động nam là: 7.491 lao động.



Thống kê theo từng thị trường như sau:

- Thị trường Đài Loan: 6.040 lao động (2.027 lao động nữ).

- Thị trường Nhật Bản: 3.533 lao động (1.737 lao động nữ).

- Thị trường Hàn Quốc: 1.105 lao động (109 lao động nữ)

- Thị trường Malaysia: 79 lao động (27 lao động nữ).

- Thị trường Ả rập - Xê út:269 lao động (206 lao động nữ).

- Thị trường Macao: 11 lao động (30 lao động nữ) và các thị trường khác.

Như vậy, trong 7 tháng đầu năm 2016, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 65.776 lao động (23.946 lao động nữ), đạt 65,78% kế hoạch năm 2016 và bằng 95,99% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước

Kỳ vọng của doanh nghiệp Nhật Bản trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam

Vừa qua tại Tokyo (Nhật Bản), Trường Đại học Việt Nhật đã tổ chức Hội thảo giữa kỳ Dự án nghiên cứu tiền khả thi Trường Đại học Việt Nhật (ĐHVN) với mục tiêu thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp Nhật Bản vào dự án Trường ĐH Việt Nhật.



Hội thảo có sự tham gia phối hợp tổ chức bởi Công ty EY Shinnihon Sustainability, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), JETRO, Liên đoàn kinh doanh Nhật Bản (Keidanren), Hiệp hội kinh doanh Nhật Bản.

Tham dự Hội thảo có gần 200 đại biểu đến từ các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản, các trường đại học đối tác Nhật Bản, JICA, đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, Liên minh hữu nghị nghị sĩ Nhật Việt...

Ở phần đầu của Hội thảo, để giúp doanh nghiệp Nhật Bản có thêm hiểu biết về Trường ĐHVN, Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật Furuta Motoo, đã có bài trình bày giới thiệu những nét cơ bản về Trường ĐHVN như bối cảnh thành lập, quan điểm phát triển, định hướng đào tạo và lộ trình phát triển.

Trường ĐHVN hướng tới là một Trường đại học hàng đầu về chất lượng đào tạo, một trung tâm nghiên cứu uy tín, học viên tốt nghiệp sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam nói riêng cũng như các quốc gia phát triển trong khu vực.

Các chương trình đào tạo (CTĐT) của Trường ĐHVN trong giai đoạn đầu tiên xây dựng hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, trên cơ sở đào tạo đa ngành, bao gồm cả lĩnh vực tự nhiên và xã hội.

Qua đó, Trường ĐHVN đang chuẩn bị điều kiện để khai giảng 6 Chương trình đào tạo thạc sĩ vào tháng 9/2016. Việc đào tạo trình độ cử nhân và tiến sĩ sẽ được tiến hành trong các năm sau đó. Trường ĐHVN kêu gọi doanh nghiệp Nhật Bản hỗ trợ trường trong việc tài trợ học bổng cho sinh viên ưu tú, tiếp nhận sinh viên ưu tú thực tập và hỗ trợ sinh viên tìm việc làm sau khi tốt nghiệp …

Để thúc đẩy xúc tiến các mô hình hợp tác giữa Trường Đại học và khối doanh nghiệp, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật Vũ Anh Dũng đã trình bày, phân tích và nêu định hướng và kỳ vọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam thông qua việc đã đánh giá nhu cầu nguồn nhân lực và những điểm chưa hợp lý của hệ thống đào tạo đại học của Việt Nam hiện nay.

Điều đó cho thấy có một khoảng cách giữa năng lực đào tạo và nhu cầu nhân lực của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là nhu cầu về nhân lực chất lượng cao tập trung vào các ngành nghề trong đó là các ngành nghề mũi nhọn tạo động lực cho phát triển của Việt Nam và khu vực trong thời gian tới.

Ngoài ra, do Nhật Bản là đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu của Việt Nam và với việc ký kết hiệp định TPP gần đây thì làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam sẽ còn mạnh mẽ hơn. Đây vừa là thách thức đồng thời cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam vì nhu cầu nhân lực, và đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 đột phá mà kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đặt ra.

Phó Hiệu trưởng Vũ Anh Dũng cũng phân tích lợi ích của doanh nghiệp Nhật Bản khi đầu tư vào giáo dục đại học và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam, đồng thời cũng đưa ra các mô hình hợp tác giữa Trường ĐHVN và doanh nghiệp Nhật Bản thông qua thực tiễn điển hình ở Việt Nam.



Kế hoạch phát triển Trường Đại học Việt Nhật được trình bày bởi Ông Kanzaki, đại diện Công ty EY Shinnihon Sustainability và là Trưởng nhóm nghiên cứu tiền khả thi phía Nhật Bản dự án Trường ĐHVN. Các nội dung được đề cập, bao gồm: phương hướng phát triển, đặc trưng đào tạo của Trường ĐHVN, phân tích nhu cầu về nhân lực của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam, kỳ vọng của doanh nghiệp đối với Trường ĐHVN. Theo đó, doanh nghiệp mong muốn Trường ĐHVN đào tạo được nhân lực là những cá nhân chính trực, vững về kiến thức, không ngại đổ mồ hôi, chăm chỉ… Thêm vào đó là năng lực lãnh đạo, khả năng điều phối, kỹ năng giao tiếp và giải quyết vấn đề.

Để giúp doanh nghiệp có hiểu hơn về các CTĐT thạc sĩ của Trường ĐHVN, GS. Fukushi, Đại học Tokyo và GS. Wilson, Đại học Osaka đã có bài giới thiệu về CTĐT thạc sĩ Kĩ thuật môi trường và Công nghệ Nano. Các bài trình bày đã nêu bật mục đích, nội dung và phương châm đào tạo, triển vọng nghề nghiệp cho học viên sau khi tốt nghiệp.

Đặc biệt, Hội thảo cũng đã tập trung nội dung vào kinh nghiệm của doanh nghiệp Nhật Bản trong phát triển nguồn nhân lực tại Việt Nam và kỳ vọng của doanh nghiệp đối với Trường ĐHVN, đại diện 3 doanh nghiệp Nhật Bản tham gia thuyết trình gồm: Ông Murayama - Ngân hàng Mitsubishi Tokyo UFJ, Chi nhánh Hà Nội và Ông Goto - Giám đốc bộ phận bán hàng, Cty Fujidenki đã có bài trình bày với tư cách doanh nghiệp lớn tại Nhật Bản; Bà Hiroko Oosumi - Trưởng phòng tổng hợp Công ty Hiyoshi có bài trình bày với tư cách doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Về xu thế đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam, Ông Murayama - Ngân hàng Mitsubishi Tokyo UFJ, Chi nhánh Hà Nội cho rằng doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam không chỉ quan tâm đến giá cả mà còn cả chất lượng nguồn nhân lực.

Hiện nay, nhân lực Việt Nam chủ yếu đảm nhận công việc lắp ráp đơn giản nhưng doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn trong tương lai Việt Nam có nhiều nhân lực chất lượng cao để doanh nghiệp có thể tiến hành triển khai R&D ngay tại Việt Nam. Ông Murayama cho rằng Trường ĐHVN mang lại cơ hội lớn cho các bạn trẻ Việt Nam: “Bây giờ, các bạn không phải trả học phí cao lắm, không cần đi nước ngoài vẫn có thể học được kỹ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, tinh thần tự chủ trong công việc… Đây quả thực là một điều rất hấp dẫn”. Về vai trò của phát triển nguồn nhân lực.

Theo ông Murayama, cải tiến sản xuất, bán hàng rất quan trọng nhưng nhanh nhất vẫn là đầu tư vào nhân lực - nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ nhanh chóng dẫn đến kinh doanh có lãi.

Từ kinh nghiệm của công ty trong phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, ông Goto - Giám đốc bộ phận bán hàng, Cty Fujidenki đã thẳng thắn chỉ những điểm mà phát triển nhân sự của Việt Nam cần cải thiện như về khó khăn trong việc giữ những người giỏi để đào tạo thành nhân sự lâu dài cho công ty, định hướng trước mắt và định hướng lâu dài gắn với quyền lợi của nhân sự, việc giải quyết các vấn đề tại chỗ so với việc quan tâm đến cốt lõi của vấn đề, tác phong trong công việc...



Về kỳ vọng với Trường ĐHVN, ông Goto mong muốn Trường ĐHVN sẽ chú trọng đào tạo nhân lực là có thể làm việc trong môi trường quốc tế; có quan điểm trung và dài hạn, và hiểu rõ văn hóa, suy nghĩ, tư cách, động thái hoạt động trong doanh nghiệp Nhật Bản.

Đây là những phẩm chất mà ông Goto cho là nguồn nhân lực chất lượng cao, sẽ dễ dàng được tiếp nhận tại các doanh nghiệp Nhật Bản. Về định hướng phát triển của doanh nghiệp Nhật Bản, ông cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp Nhật Bản đang có xu thế sở tại hóa nhân sự tại đất nước đó.

Về hợp tác với Trường ĐHVN, Bà Hiroko Oosumi đại diện cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ nêu các cơ hội hợp tác thông qua trường hợp cụ thể của công ty Hiyoshi trong lĩnh vực môi trường có thể cung cấp các nội dung như đào tạo phân tích chất lượng nước, giải quyết vấn đề chất độc dioxin tại Việt Nam, cung cấp mẫu thử, phương pháp thử dioxin tại Việt Nam, đào tạo nhân lực liên quan đến các lĩnh vực này. Bà cũng bày tỏ công ty hy vọng có thể cung cấp kiến thức bảo vệ môi trường ngay tại nước sở tại như Việt Nam.

Phần hỏi đáp giữa Trường Đại học Việt Nhật với các doanh nghiệp Nhật Bản đã nhận được nhiều ý kiến quan tâm, trao đổi, thảo luận. Nhiều vấn đề về hợp tác với doanh nghiệp, chương trình đào tạo, ngôn ngữ đào tạo, sự tham gia của các nhà quản lý doanh nghiệp với vai trò giảng viên, phát triển các chương trình đào tạo gắn với nhu cầu xã hội… được các doanh nghiệp quan tâm tìm hiểu và trao đổi tại hội thảo.

Hội thảo giữa kỳ Dự án nghiên cứu tiền khả thi Trường Đại học Việt Nhật (ĐHVN) đã đón nhận sự tham gia đông đảo và quan tâm lớn cũng như kỳ vọng lớn của khối doanh nghiệp Nhật Bản đối với Trường ĐHVN. Hội thảo cũng đã góp phần quảng bá hình ảnh về một trường đại học ở Việt Nam tới cộng đồng quốc tế.

Đây là cách làm mới mà một trường Đại học ở Việt Nam lần đầu tiên tổ chức chuỗi hội thảo xúc tiến tại nước ngoài với mục tiêu thúc đẩy sự tham gia và hợp tác với các doanh nghiệp tư nhân quốc tế trong việc xây dựng và phát triển trường.

(Nguồn: Dân trí)

Tin vui khi đi xuất khẩu lao động Nhật Bản năm 2016

Các hoạt động tái thiết sau thảm họa động đất, sóng thần vào năm 2011, hoạt động xây dựng để chuẩn bị cho thế vận hội mùa hè vào năm 2020 ở Tokyo đã đẩy nhu cầu lao động ở Nhật Bản lên mức cao nhất trong 24 năm qua.



Nhật Bản dự kiến sẽ tăng gấp đôi số lượng lao động nước ngoài

Nhờ các sự kiện này mà số lao động nước ngoài tại Nhật đã tăng 40% tính từ năm 2013 trong đó lao động Trung Quốc chiếm cao nhất hơn 1/3 và đứng lần lượt sau đó là lao động đến từ Việt Nam, Philipine, Brazil. Tuy vậy lao động nước ngoài chỉ chiếm 1.4% lực lượng lao động ở Nhật Bản, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 5% hoặc cao hơn ở hầu hết các nền kinh tế phát triển.

Trước tình hình này, ủy ban đặc biệt về lao động nước ngoài của đảng LDP đã đề nghị mở rộng danh mục các loại công việc dành cho lao động nước ngoài và tăng gấp đôi số lao động nước ngoài tại Nhật Bản hiện đã ở mức xấp xỉ 1 triệu người.

Vì sao Nhật Bản phải cân nhắc tới việc nới rộng cho lao động nước ngoài

Trong bối cảnh đang cần nhân lực để tái thiết đất nước sau các thảm họa động đất, sóng thần tại đông bắc năm 2011 và thảm họa động đất Kumamoto hồi giữa tháng 4 vừa qua, đồng thời chuẩn bị hạ tầng cho đại hội Olympic 2020 được tổ chức tại Tokyo. Nhật Bản đang đối mặt với nguy cơ thiếu hụt lao động trầm trọng hơn bao giờ hết.

Nhật Bản tận dụng nguồn lao động tóc bạc

Tuy nhiên, một thực tế mà các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà phân tích đều thừa nhận đó là cho dù triển khai các biện pháp an sinh xã hội với các trọng tâm tăng số nhà dưỡng lão, tăng số nhà trẻ và tăng tỷ lệ sinh thì hiệu quả của nó vẫn rất mơ hồ và chưa có tác động ngay lập tức, trong khi thiếu hụt lao động đang kìm hãm nền kinh tế.

Trong bối cảnh này giải pháp thu hút lao động nước ngoài có vẻ là lựa chọn khả thi nhất với các ưu điểm như nguồn cung dồi dào, nhân công giá rẻ và giải quyết được ngay bài toán nhân lực của Nhật Bản

Chính sách này sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với lao động Việt Nam đã, đang và sẽ làm việc tại đây

Hiện nay hầu hết các lao động nước ngoài sang Nhật Bản theo hình thức thực tập sinh kỹ năng bước đầu cung cấp cho Nhật Bản một nguồn nhân lực giá rẻ. Đối tượng của hệ thống thực tập sinh kỹ năng là các thanh niên nước ngoài đến tiếp thu các kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp mới nhất tại Nhật Bản sau đó sẽ ứng dụng các kỹ năng đó tại đất nước của mình để phát triển kinh tế.

Tính đến tháng 06/2015 có tổng cộng khoảng 180.000 thực tập sinh nước ngoài tham gia chương trình này. Tuy nhiên chính bộ tư pháp Nhật Bản thừa nhận những quy định khắt khe trong vấn đề tuyển dụng lao động nước ngoài đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tuyển chọn thực tập sinh bắt chẹt các lao động nước ngoài. 

Theo bộ tư pháp số lượng thực tập sinh kỹ thuật nước ngoài tại Nhật Bản bỏ trốn tại nơi làm việc đã lên tới 5803 người trong năm 2015, mức cao nhất từ trước đến nay với nguyên nhân chủ yếu là điều kiện làm việc không đảm bảo, lương thấp, thực tập sinh bị đối xử tồi tệ. Thực trạng này đã khiến nhiều chuyên gia và chính khách Nhật Bản kêu gọi chính phủ xem xét cải tiến hệ thống tuyển dụng tu nghiệp sinh và nới lỏng các quy định đối với lao động nước ngoài. Họ cho rằng điều này không chỉ hỗ trợ lao động nước ngoài mà giúp cho Nhật Bản bảo đảm được nguồn cung lao động chất lượng và ổn định.

Chính vì vậy chính sách nới lỏng quy định cho lao động nước ngoài không chỉ mang lại lợi ích cho lao động Việt Nam với tư cách là một trong những quốc gia xuất khẩu lao động mà còn cho cả Nhật Bản, quốc gia đang có nhu cầu bổ sung nhân lực.

Trong các cuộc trao đổi với nhiều lãnh đạo doanh nghiệp Nhật Bản tại nhiều địa phương tất cả các doanh nghiệp này đều mong muốn được tuyển dụng lao động Việt Nam được họ đánh giá là co tay nghề cao và cần cù. Các doanh nghiệp này cũng này tỏ mong muốn chính phủ Nhật Bản sớm nới lỏng các quy định đối với việc tuyển dụng lao động nước ngoài.

(Nguồn: Sưu tầm)

Hàn Quốc sẽ mở lại thị trường lao động Hàn Quốc vào năm 2017



Ngày 15/5, Bộ Lao động và Việc làm Hàn Quốc ra thông báo cho biết Hàn Quốc sẽ ký lại Bản ghi nhớ (MOU) thông thường về việc nối lại tiếp nhận lao động Việt Nam sang nước này làm việc theo Chương trình cấp phép việc làm (gọi tắt là Chương trình EPS) từ năm 2017.

Được biết, quyết định trên của phía Hàn Quốc được đưa ra trong bối cảnh các doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài của nước này đã kêu gọi chính phủ Hàn Quốc ký lại MOU thông thường nói trên, đồng thời đánh giá cao lao động Việt Nam về khả năng thích ứng tốt với môi trường làm việc và nhanh chóng nắm bắt các kỹ năng trong công việc.

Bên cạnh đó, phía Việt Nam cũng đã đưa ra một lộ trình nhằm tuyên truyền vận động và quản lý tốt hơn số lao động bất hợp pháp người Việt tại Hàn Quốc trong thời gian từ 2016 đến 2018.

Trước đó, vào năm 2012, do tỷ lệ lao động bất hợp pháp người Việt tại Hàn Quốc đứng ở mức cao, Hàn Quốc đã tạm ngừng bản MOU thông thường về việc tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này theo chương trình EPS và chỉ ký MOU đặc biệt với thời hạn 1 năm, trong đó cho phép tuyển dụng một số lượng hạn chế các lao động trung thành, lao động đã đỗ trong các kỳ thi tuyển tiếng Hàn trước thời đó.

Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã Hội hồi tháng 5/2015, chính phủ Hàn Quốc đã đẩy mạnh truy quét 226.000 lao động cư trú bất hợp pháp, trong đó có hơn 26.000 người Việt Nam. Riêng số cư trú bất hợp pháp đi theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc (EPS) là khoảng 16.000 người.

Thời gian qua, nhằm khuyến khích người nước ngoài cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc, trong đó có lao động bất hợp pháp người Việt, tự nguyện về nước, Bộ Tư pháp Hàn Quốc đã ban hành quy định cho phép những người trên nếu tự nguyện đăng ký về nước trong thời gian từ ngày 1/4 đến 30/9/2016 sẽ không bị xử phạt hành chính và không bị hạn chế tái nhập cảnh vào Hàn Quốc.

Được biết, các lao động Việt Nam sang Hàn Quốc bằng nhiều con đường, hầu hết là nam, ở trình độ phổ thông. Họ làm nông nghiệp, công nhân xây dựng, lắp ráp tại các nhà máy, công trường... Lao động không chịu về nước chủ yếu do mức lương ở Hàn Quốc khá cao, từ 25 đến 30 triệu đồng, có người lên đến 40 triệu đồng mỗi tháng. 

Với việc hai bên ký lại MOU thông thường, dự kiến số lượng lao động Việt Nam được sang Hàn Quốc làm việc trong thời gian tới sẽ tăng mạnh.

(Nguồn: Molisa)

23.214 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong quý I năm 2016

Thị trường lao động đi làm việc tại nước ngoài quý I năm 2016 được đánh giá là ổn định.



Theo số liệu báo cáo từ các doanh nghiệp, tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong Quý I năm 2016 là 23.214 lao động (9.560 lao động nữ), gồm các thị trường:

- Đài Loan: 13.096 lao động (5.055 lao động nữ).

- Nhật Bản: 7.110 lao động (3.443 lao động nữ)

- Hàn Quốc: 275 lao động (13 lao động nữ)

- Malaysia: 1.259 lao động (706 lao động nữ)

- Ả rập - Xê út: 584 lao động (281 lao động nữ)

- Macao: 82 lao động (50 lao động nữ) và các thị trường khác.

Như vậy, Quý I năm 2016, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 23.214 lao động (9.560 lao động nữ) đạt 23,21% kế hoạch năm 2016 và bằng 90,10% so với cùng kỳ năm ngoái.

(Nguồn: Molisa)

Cơ hội và thách thức khi đi xuất khẩu lao động Nhật Bản

Trong những năm gần đây, đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản là một sự lựa chọn hấp dẫn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng lao động với mong muốn được kiếm thêm thu nhập giúp đỡ gia đình cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, cũng cần có những đánh giá và nhìn nhận đa chiều về cơ hội cũng như thách thức khi đi xuất khẩu lao động Nhật Bản để có những sự chuẩn bị tốt hơn khi bước vào một môi trường mới hoàn toàn khác so với môi trường mà chúng ta đang sống và làm việc. Trong bài viết này, ABC sẽ chia sẻ cho các bạn về những cơ hội cũng như thách thức khi chúng ta lựa chọn con đường đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản



Xuất khẩu lao động Nhật Bản - Nhiều cơ hội rộng mở

Nhật Bản là một trong những nền kinh tế hàng đầu trên thế giới nói chung và châu Á nói riêng, với tốc độ phát triển kinh tế ổn định. Nhật Bản phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, công nghệ cao, cơ khí, chế tạo, chế biến... đòi hỏi một lượng rất lớn nguồn lao động trong khi đó dân số Nhật Bản tăng trưởng không mấy khả quan. Việc thiếu nguồn cung lao động trong nước nên các doanh nghiệp Nhật Bản có xu hướng tìm kiếm các nguồn lao động ngoại nhập, đó là cơ hội hấp dẫn cho những ai muốn được đi ra nước ngoài làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp, tiên tiến nhất hiện nay. Không chỉ là một môi trường lý tưởng, điều kiện sinh hoạt được chăm chút chu đáo cũng như mức lương cao với tỷ giá quy đổi hấp dẫn là những điểm cộng sáng giá, nâng cao tính cạnh tranh của thị trường Nhật Bản.

Xuất khẩu lao động Nhật Bản - Những thách thức về năng lực làm việc

Một môi trường làm việc được coi là hoàn hảo với những đãi ngộ tốt nên yêu cầu của các doanh nghiệp Nhật Bản khi tuyển dụng lao động cũng khắt khe và đòi hỏi cao hơn các nhà tuyển dụng khác.

Đối với người Nhật, họ là những người rất nguyên tắc về mặt thời gian, yêu cầu cao sự tập trung, tác phong công nghiệp. Họ có thể chấp nhận tuyển dụng những người chưa có chuyên môn, song bạn phải là một người cần cù, ham học hỏi, cầu tiến và nhất định phải là người trung thực. Bạn cần phải có một vốn tiếng Nhật có thể chưa hoàn toàn tốt nhưng phải đủ để giao tiếp trong cuộc sống và tiếp thu những gì họ đào tạo.


Thách thức và cơ hội luôn tồn tại song hành, thành công là do bạn biết nắm bắt và vượt qua. Nhật Bản có thể không phải là một vùng đất hứa, không hoàn toàn long lanh như bạn vẫn mơ mộng qua những trang sách báo, tin tức mà bạn xem hàng ngày nhưng thực sự ở Nhật Bản vẫn là một sự lựa chọn tối ưu dành cho bạn nếu mục tiêu của bạn là học hỏi và kiếm thêm thu nhập để cải thiện cuộc sống, Nhật không phải là mảnh đất hứa mà là nơi sự cố gắng, sự nỗ lực và chăm chỉ chiến thắng.

Thách thức và cơ hội luôn tồn tại song hành, thành công là do bạn biết nắm bắt và vượt qua. Nhật Bản có thể không phải là một vùng đất hứa, không hoàn toàn long lanh như bạn vẫn mơ mộng qua những trang sách báo, tin tức mà bạn xem hàng ngày, nhưng thực sự ở Nhật Bản vẫn là một sự lựa chọn tối ưu dành cho bạn nếu mục tiêu của bạn là học hỏi và kiếm thêm thu nhập để cải thiện cuộc sống, không phải là mảnh đất hứa mà là nơi sự cố gắng, sự nỗ lực, sự chăm chỉ chiến thắng.

Chúc các bạn thành công với sự lựa chọn của mình!!!!  Wink Smile Laughing

Tổng quan các thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài

Theo thống kê trong năm 2015 có 115.980 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, tăng 8,55% so với năm 2014 và vượt 28,86% so với kế hoạch năm đặt ra. Riêng trong tháng 12, các doanh nghiệp đã cung ứng được 6.728 lao động, giảm 31,60% so với tháng 11.



Tổng quan thị trường tiếp nhận lao động phân theo khu vực cho thấy:

1. Khu vực Đông Bắc Á

Số lao động đi làm việc tại khu vực Đông Bắc Á là 100.643 người, chiếm tỷ trọng 86,77% tổng số đưa đi, tăng 9,82% số lượng lao động đưa đi so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, số lao động đi làm việc tại Đài Loan là 67.121 người, chiếm 66,70% số lao động đưa đi trong khu vực này và 57,87% so với tổng số lao động đưa đi trong năm 2015. Bình quân thị trường này mỗi tháng tiếp nhận 5.593 người. Riêng tháng 12 Đài Loan tiếp nhận 2716 người giảm 48.83% so với tháng 11.

Lao động đưa đi tại thị trường Nhật Bản: 27.010 người tăng 36,65% so với  số lao động đưa đi năm 2014,  bình quân mỗi tháng đi được 2.250 người. Trong tháng 12 con số này là 2.494người. Đây là con số cung ứng lao động sang thực tập sinh tại Nhật cao nhất so với các năm qua .

Lao động đi làm việc tại Hàn Quốc là 6.019 người, bình quân mỗi tháng Hàn Quốc tiếp nhận 501 người. Quy mô tiếp nhận lao động VN giảm 16,88% so với năm 2014.

Lao động đi làm việc tại MaCao là 493 người, giảm 80,40% so với năm 2014.

2. Thị trường khu vực Đông Nam Á

Có 7.389 lao động Việt Nam đi làm việc tại thị trường này, chiếm 6,37% tống số lao động đưa đi, tăng 34,81% so với  số lao động đưa đi trong năm 2014. Trong đó chỉ có hai thị trường tiếp nhân lao động đó là: Malaysia có quy mô tiếp nhận lớn nhất là 7.354 người, chiếm 99,52% số lao động đưa đi trong khu vực này . Bình quân mỗi tháng thị trường này tiếp nhận 612 lao động. Quy mô tiếp nhận lao động VN tại Malaysia tăng 43,10% so với số lao động đưa đi năm 2014.

Và thị trường Singapore đã tiếp nhận 31 lao động, tiếp tục có xu hướng giảm và giảm 66,30%  so với năm 2014. Đây là thị trường đòi hỏi người lao động không chỉ có tay nghề cao mà cả có trình độ tốt về ngoại ngữ.

3. Thị trường các nước khu vực Trung Đông và Bắc Phi

Thị trường các nước khu vực Trung Đông tiếp nhận 5.124 lao động, chiếm 4,42% tổng số lao động đưa đi, giảm 14,14% so với cùng kỳ năm trước.Trong năm 2014 các doanh nghiệp chỉ cung ứng lao động cho bốn thị trường có số lượng đáng kể, đó là: UAE với 286 người, giảm gần 66% ; Israel: 268 người; Quatar 850 người và Ả Rập Xê-Út: 3.975 người, giảm 5,15% so với năm 2014.

Số lao động đi làm việc tại các nước Bắc Phi là 2.055 người, chiếm 1,77% tổng số lao động đưa đi, tăng 22,03% so với năm 2014.Trong đó, thị trường Algeria: 1.963 người tăng gần 3,6 lần so với năm 2014 và Angola: 92 lao động.

4. Thị trường các khu vực khác

Lao động đi làm việc tại các thị trường khác là 769 người, chiếm 0,67% tổng số lao động đưa đi. Trong đó thị trường Berlarus tiếp nhận 91 người; Liên bang Nga : 81 người. Đáng lưu ý trong năm 2015, một số doanh nghiệp đã  xúc tiến đưa lao động vào thị trường mới  Italia : 137 người ; Thổ nhĩ Kỳ : 305 người và thực hiện chương trình Điều dưỡng viên tại CHLB Đức: 100 người. Hiện số lao động này có việc làm ổn định và thu nhập tốt.

Số liệu thống kê cũng cho biết lao động nữ đưa đi là 38.640 người, chiếm 33,32% tổng số lao động đưa đi.

Nếu trong năm 2015 có 21 thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam, thì chỉ có 6 thị trường tiếp nhận với quy mô từ 1.000 lao động trở lên, bao gồm thị trường: Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Ả Rập Xê- Út, và Algieri.

Tóm lại trong năm 2015, các thị trường tiếp nhận lớn lao động Việt Nam vẫn tập trung vào các nước (lãnh thổ) thuộc khu vực Đông Bắc Á và tập trung sự gia tăng lớn hơn cả là hai thị trường Đài Loan và Nhật Bản.

Thị trường khu vực Trung Đông có xu hướng giảm so với năm 2014. Thị trường các nước Đông Nam Á tăng nhẹ so với trước, riêng thị trường Malaysia có sự gia tăng đáng kể.

Đây là một nét khác biệt so với các năm trước đây và có lẽ cũng sẽ là xu hướng vận động của thị trường tiếp nhận lao động  Việt Nam trong năm 2016.

Cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của cơ quan Quản lý Nhà nước ngay từ đầu năm 2016 về ổn định và phát triển các thị trường trọng điểm đặc biệt tại hai thị trường Nhật Bản và Đài Loan, cũng như sự tập trung đầu tư bài bản của các doanh nghiệp nhằm cải thiện tốt hơn chất lượng lao động, nâng cao tính tuân thủ nghiêm túc về ý thức chấp hành việc trở về nước khi hết hạn hợp đồng của người lao động. Chắc chắn trong năm 2016, sự nghiệp xuất khẩu lao động sẽ có bước phát triển mới kể cả quy mô và chất lượng.

Nguồn: Vasma

Top